Về Để Mà Thương
Nguyễn Thị Liên Hưng
(CHS/NH 69-75)
Khi cánh cổng nhà khép lại, chiếc taxi lăn bánh tôi mới chắc chắn rằng mình được trở về Quảng Trị trong lần hội trường Nguyễn Hoàng năm 2015 này.
Con đường Dương Bạch Mai, nơi có căn nhà của tôi lùi lại sau đoạn dốc, tài xế bật một bài hát có những ca từ sâu lắng, dàn trải nỗi niềm hạnh phúc của người ở xa trở về quê cũ làm chị em chúng tôi nhìn nhau cười thấm thía. Và thế là ba chị em nhà Nguyễn Ngọc của làng Lam Thủy gồm An Lành, Liên Hưng và Vĩnh Phước đã cùng nhau có một chuyến trở về như mong đợi.
Mấy tháng gần đây tôi gặp lắm chuyện không vui, từ cái
trượt chân bất ngờ của mẹ già dù đã qua phẫu thuật mà vẫn phải nằm liệt giường,
đến những chuyện nhiêu khê cuộc sống khiến tâm hồn tôi như chiếc thuyền nan
chao đão giữa trận cuồng phong trên biển cả. Vì thế tôi không nghĩ đến chuyện về
quê dù chị em tôi đã có lời hẹn từ năm trước. Trong khi những cư dân Nguyễn
Hoàng phương Nam rộn ràng chuẩn bị cho ngày về họp mặt thì tôi vẫn lặng lẽ với
công việc thường ngày. Có vài người thân quan tâm, họ nhắc tôi đặt vé trước, vé
máy bay giá rẻ mua sớm quả là rất rẻ, rồi còn vé tàu lửa… mua trễ coi chừng hết
vé, v.v và v.v… Nhưng tôi không biết mình có đi được hay không đồng thời tâm tư
đang rối bời, chẳng hứng khởi gì nên chỉ cười buồn. Cả chị AL và em gái VP cũng
tùy vào tôi, có tôi thì chị em mới cùng đi mà không thì thôi. Bởi vậy khi vài
người quen của tôi đã về Quảng Trị, đã ngồi bên bờ sông Thạch Hãn gọi điện hỏi
tôi về chưa thì tôi vẫn chưa chắc chắn chuyện trở về của mình. Nhưng rồi cuối
cùng tôi đã về sau khi hoàn tất những công việc cần thiết ở cơ quan, bàn giao
việc nhà cho chị Nho và cô gái giúp việc đồng thời tạm gác lại bao chuyện nhiêu
khê chung quanh để lên đường, nói như anh: “Mỗi lần đi như thế là để nạp năng
lượng cho cuộc sống đó em ạ”
Và thưa anh! Em xin thưa riêng với anh là chuyến đi đã cho em nhiều năng lượng yêu đời, yêu người nên bây giờ em không còn ủ dột, em vui tươi và thấy đời đáng sống lắm anh ạ.
Ngày đầu trên quê cũ
Buổi sáng đầu tiên khi đặt chân lên mảnh đất Thành Cổ,
tôi ngước nhìn tàng phượng ngày hè còn một trời rực rỡ mà nghe lòng bâng khuâng
chi lạ. Chị An Lành chắc còn cảm động hơn tôi vì lâu lắm rồi chị mới được trở
về quê cũ. Điểm đến đầu tiên là căn nhà rộng rãi của Hạnh – một cô bạn thời áo
trắng Nguyễn Hoàng của Vĩnh Phước. Dù Việt Hương đã đặt hotel ở Đông Hà nhưng
nể lời em gái - VP bảo Hạnh “xí phần” trước cả năm rồi, phải về đó đã rồi tính
- tôi và chị AL đành theo em gái và sự
hiếu khách của chủ nhà đã khiến chị em tôi vô cùng cảm động.
Trời vào trưa nóng hừng hực, gió Nam Lào đâu không thấy mà mồ hôi túa ra như tắm dù mấy quạt máy vây quanh chị em tôi Hạnh đều mở hết công suất, thế mà Hạnh bảo hôm nay trời mát đấy chứ mấy bữa trước 40 độ. Chị em tôi nhìn nhau nhưng không ai nghĩ đến chuyện dời về khách sạn trốn nóng. Mình từ đây mà ra chứ có phải từ xứ khác đến đâu, bà con mình ở đây chịu được thì mình cũng chịu được thôi. Tôi nghĩ thế và cảm thấy cái nóng không còn là cực hình nữa. Anh Lê Thiện Ngữ gọi điện rồi tìm đến giữa trưa nắng, thật là cảm động. Sau câu chuyện hàn huyên, thăm hỏi nhau, chị em tôi hẹn anh chiều sẽ về thăm Thạch Hãn xưa. Tôi gọi cho anh chị Lệ Phương – bà chị dâu con nhà ông bác để hỏi địa chỉ chiều đi taxi đến thăm gia đình, vì tôi biết nhà anh chị ở Thành Cổ nhưng không biết ở đường nào. Chị hỏi mấy o đang ở mô? Tôi nói địa chỉ và chị phá ra cười. Trời ạ! Thì ra là căn nhà ấy – căn nhà mà lúc nãy Hạnh đưa chị em tôi qua quán bún bên kia đường – khi ngang qua căn nhà đối diện chênh chếch tí xíu, một chị ở trong sân nói vói ra trêu Hạnh khi thấy Hạnh đi cùng người lạ. Và người ấy chính là chị Phương. Thêm một điều bất ngờ nữa là chị Phương và Hạnh cũng là chị em họ và rất thân nhau. Mấy phút sau chị Phương tìm đến và chúng tôi òa ra cười vì cái chuyện xin địa chỉ để kêu taxi đến thăm.
Buổi chiều trời bớt nắng, chúng tôi tìm đến nhà ông anh bên ngoại ở góc đường Quang Trung bên bờ sông để thăm và thắp hương cho dì dượng. Bất ngờ gặp lại các em, anh Trinh mừng khôn xiết. Chuyện xưa lại trở về trong nụ cười có lẫn giọt nước mắt của mấy anh em. Bịn rịn chia tay người anh đã qua tuổi bát tuần, chúng tôi cùng nhau tìm về Thạch Hãn xưa.
Anh Ngữ đón chị em tôi trong niềm vui, anh nói tưởng mấy cô sợ nóng ở khách sạn chứ nếu ở nhà o Hạnh thì về nhà tui có phải hơn không? Đúng thế, nhà anh rộng rãi, mát mẻ mà chỉ có hai vợ chồng, con cái trưởng thành đều đã ra riêng. Khuôn viên An Lạc Viên dù có thêm căn nhà mới nhưng vẫn không khác mấy, vẫn ao sen bán nguyệt soi bóng những cành lan đong đưa trong gió, vẫn vườn cây hữu tình bên những cổ vật một thời xóm cũ mà chủ nhân đã giữ lại để tạo cảnh. Anh Ngữ đưa chị em tôi sang thăm chốn cũ, trên đường đi anh chỉ từng góc đường và nhắc ngày xưa ấy… đây là nhà ai, kia là nhà ai… Khi dừng chân trước mảnh vườn xưa, tôi thấy chị An Lành rất xúc động, ngay cả tôi đã từng về đây mấy lần mà cũng nghe mắt cay cay huống hồ chị, người lần đầu trở lại sau mấy chục năm bỏ chạy để thoát thân vào mùa hè rực lửa năm 1972 – lúc trái pháo rơi xuống làm tan tành mái nhà thân yêu. Có lẽ với mảnh vườn cỏ úa trước mắt, chị đã nhớ lại căn nhà xưa, nơi đó có cha có mẹ còn trẻ và chị em tôi cùng những người thân, bạn bè của thời mới lớn. Mà thôi, hơn bốn mươi năm rồi, dâu bể là chuyện của đất trời, có còn chăng là tâm người vọng tưởng.
Trên đường tìm về quán nem lụi o Hà ở chợ Sãi, cả nhóm 7 người gồm vợ chồng anh chị Lệ Phương, anh Ngữ, Hạnh và ba chị em tôi râm ran trò chuyện. Chiều, ven đường đi lúa đồng xanh bát ngát, gió nhẹ nhàng mát mẻ khiến hồn người sảng khoái. Vào quán, vừa yên vị chưa bao lâu thì thấy nhóm người khác đến, VP bảo chắc lại dân Nguyễn Hoàng đây nhưng chúng tôi không để ý lắm vì mùi nem nướng thơm lừng đang lùa vào khứu giác. Bất chợt có tiếng gọi Liên Hưng, tôi vội dừng cuốn nem đang định cắn dòm qua dãy bàn phía bên kia. A! Thì ra chị Ngọc Mân và nhóm bạn phương Nam (NH khóa 67-75) đang ngồi đó. Tôi mắc cỡ quá vội rời bàn đến chào các chị và thú nhận tại em tham ăn nên chẳng dòm đến ai, (ối là la…). VP cũng nhận ra cô giáo Yến hồi học sư phạm tại Bà Rịa. Thì ra toàn người quen cả.
Trở lại Thành Cổ, Vĩnh Phước và Hạnh
bận tiếp bạn nên tôi và chị An Lành thả bộ ra bờ sông Thạch Hãn. Đường chiều
vắng vẻ và hơi nóng vẫn còn hầm hập. Bãi bồi trước chùa tỉnh hội bây giờ là
điểm khai thác cát, không còn vẻ nên thơ của thuở nào. Chúng tôi lần bước về
phía nhà nghỉ Thành Cổ mới thấy vài quán nước ven bờ. Đâu đó lác đác khách, có
lẽ là cư dân Nguyễn Hoàng phương xa hẹn gặp nhau hóng gió. Nhưng gió chiều đâu
chẳng thấy, chị em tôi dừng chân bên bến nhà thả hoa, dòng nước như dùng dằng,
như chẳng muốn trôi, như mang nặng nỗi đau... Hay là âm hồn oan khuất của bao
hài cốt còn chôn vùi trong lòng sông của mùa hè năm ấy đã nắm giữ dòng nước
lại? Tôi lặng lẽ thả từng bước chậm, ngắm dòng sông mờ dần trong bóng tối không
bóng thuyền chài mà nghe nỗi sầu ở đâu chợt ùa về vây phủ.
Chiều nay tắt nắng bên sông lạnh
Chẳng thấy ngư ông gõ mạn thuyền
Chỉ có mình ta trong cô quạnh
Hoàng hôn đổ xuống dốc đời nghiêng…
Ngày góp mặt
cùng nhóm 67-75
Theo kế hoạch, tôi định ra đến Quảng Trị là về làng
luôn, sau đó đi họp trường ngày 20/6 và ra Đông Hà rồi về nhà sớm, chứ bỏ mẹ
già đau yếu, con gái vừa được nghỉ hè về nhà, đi lâu ngày không đành lòng hơn
nữa còn cuộc hội nghị quan trọng ở cơ quan vào cuối tháng, nhưng ông anh họ của
tôi báo bận. Ngày trước anh bận việc làng, ngày sau anh bận dự họp tuyên dương
cựu giáo chức gì đó tại Đông Hà. Về làng mà anh em không có thời gian trò
chuyện thì không được nên tôi đành dời ngày về làng lại. Ngày thứ hai ở quê nhà
rảnh rỗi nên chúng tôi nhập nhóm lớp chị Lê Lan (khóa 67-75) vì sau cuộc chơi,
mấy chị em có dự định ghé qua Đạo Đầu thăm mộ thầy Phan Phụng Thạch. Khi nghe
anh Thiên – bạn học chị Lan mời, tôi rất vui nhưng củng thật lòng nói với anh
là tôi xin góp phần vì tôi không đi một mình mà là 4 người – ba chị em LH và
Hạnh. Không ngờ anh Thiên nói anh mời nhóm LH 10 người, đi bao nhiêu cứ báo để
anh chuẩn bị phương tiện. Ôi! Thế thì còn gì bằng và chúng tôi đã có một ngày
không chỉ đáng nhớ mà còn đầy ý nghĩa, vì thỏa được nguyện vọng bấy lâu là một
lần về thăm mộ người thầy năm cũ.
Điểm đến đầu tiên là
nhà anh Nớp ở làng Văn Vận. Đây là nơi họp mặt của các CHS/NH khóa 67-75. Ồ!
Nhóm nầy khá đông, mọi người ngồi chật hết 5 chiếc bàn tròn. Những món ăn được
bày ra để cho bạn học ngày xưa cụng ly và tha hồ nhắc chuyện cũ. Có những người
40 năm nay mới gặp lại nhau, phải xưng tên mới nhận mặt rồi ôm nhau mừng mừng,
tủi tủi. Những chiếc máy ảnh liên tục lóe lên ghi hình kỷ niệm và đã có những
câu thơ chơn chất thật cảm động được viết vội vàng trên mảnh giấy nháp, anh Lê
Thiên cứ đọc đi đọc lại hết bàn này sang bàn khác khiến ai nấy quên luôn buổi
trưa ngày hè đứng gió.
Điểm đến kế tiếp là trằm Trà Lộc rợp
bóng cây xanh. Giữa khung cảnh thiên nhiên thoáng mát, bên bàu nước lộng gió
với những cánh sen, cành súng đong đưa mọi người chọn một chòi lá rộng rồi quây
quần bên nhau tiếp tục câu chuyện xưa – nay và ca hát. Anh Văn Thiên Tùng méo
mó nghề nghiệp hay sao mà dẫn chị em tôi đi dọc theo lối mòn ven bàu nước để
giới thiệu về những cây dược liệu thiên nhiên. Nhìn những cọng dây tầm gởi vắt
vẻo trên cành lá màu xanh, VP hỏi anh đây là cây gì và anh đáp tỉnh bơ: dây tơ
xanh. Tôi không biết anh nói đùa hay thật nhưng ngẫm nghĩ cũng có lý, dây màu
hồng gọi là tơ hồng, còn đây dây màu xanh thì phải gọi là tơ xanh chứ còn chi
nữa (!). VP nhắc lại kỷ niệm đây là con đường xưa em đi học 40 năm trước nhưng
so với ngày nay thì khung cảnh thiên nhiên hồi ấy đẹp hơn nhiều. Hàng cây mưng hoang
dại đầy những chùm hoa đỏ rắc xuống mặt nước dập dềnh ven hồ đẹp đến nao lòng
khiến chị em tôi không nỡ dời chân thuở ấy giờ chẳng còn một móng, có lẽ chúng
bị kẻ trộm bứng trốc gốc để đem bán cho những công viên, nhà hàng ở phố thị từ
lâu rồi. Và bây giờ chúng được gọi bằng cái tên sang cả hơn: Lộc Vừng. Bỗng
dưng tôi chợt nghĩ không biết ở những nơi chốn thị thành ấy, cây mưng ngày nào
có nhớ tiếc cảnh đời phóng khoáng, tự do với chim muông bên bàu nước thiên nhiên
này không? Hay chúng lại hãnh diện khi được khoác vào mình một cái tên mới và
được trang điểm bằng những chùm đèn lấp lánh giữa cảnh phù hoa đô hội?
Xế chiều, khách ở các quán lá bắt
đầu rời chỗ và chúng tôi cũng thế. Tạm biệt mọi người, chiếc xe nhỏ đưa anh
Thiên, chị em Thương – Lan cùng Liên Hưng – Vĩnh Phước qua chiếc cầu ngang trên
sông Vĩnh Định gần chợ Ngô Xá rồi quay đầu hướng về thị xã Quảng Trị. Qua cầu
Ba bến, xe rẽ vào con đường nhựa thẳng tắp mà ngày trước người dân quê tôi quen
gọi đó là đường cây số 5. Thuở còn ở quê nhà, tôi chưa từng qua con đường này
nhưng biết nếu về hướng ấy là sẽ đến Chợ Cạn. Con đường đất ngày ấy thẳng tắp
đầy bóng dương liễu trông thật nên thơ còn bây giờ đã được tráng nhựa, rộng đủ
cho ô tô qua lại. Xe bon bon trên đường giữa những cánh đồng lúa vụ thu đông
còn xanh bát ngát. Những làng mạc nối nhau và chúng tôi đều dễ nhận biết là
mình đang đi đến đâu vì trên mỗi con đường dẫn vào xóm nhỏ đều có tên làng, tên
xóm. Và đây rồi: Xóm Bàu làng Đạo Đầu, quê hương người thầy quá cố. Chị Lan gọi
điện liên lạc và chú Bích – em trai thầy đón chúng tôi đầu ngõ. Nhìn hàng cau
xếp hàng thẳng tắp trên lối vào nhà, tự dưng lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn
mênh mang. Chúng tôi xin phép chú Bích bày quà bánh lên bàn thờ rồi thắp nhang.
Di ảnh thầy vẫn thế, vẫn chiếc kính cận trên khuôn mặt gầy gầy thanh tú, vẫn
trẻ trung như độ nào thầy còn trên bục giảng. Thầy đã dừng lại ở tuổi 30 nhiều
mộng ước chứ không như lũ học trò chúng tôi ngày một già đi vì thời gian tàn
phá.
Trước khi rời nhà chú Bích, mấy chị
em dừng lại trước sân thả mắt theo hàng cau chót vót, ngắm cây khế già bên gốc
vườn mà nhớ đến đây từng là một nơi chốn đi về của thầy. Chị Lan khe khẽ đọc
lại câu thơ cũ của thầy: Còn bao giờ em
trở về qua đó. Mắt u hoài đi giữa nắng vàng hanh (Thơ tình tuổi 30). Nghe
lời thơ cũng là câu hỏi ấy khiến tôi bất giác trả lời: Thưa! Bây giờ em đã về chốn cũ. Mắt vương sầu đi trong nắng chiều rơi.
Chú Bích đưa
chúng tôi đến nơi an nghỉ của thầy. Xe dừng lại ngoài đường lớn, mọi người
xuống xe, men theo bờ ruộng để vào thăm thầy. Con đường vào khu mộ tuy không
bao xa nhưng hết cát trắng lún chân người lại đầy hoa mắc cỡ nên chúng tôi phải
bước chậm, thận trọng để khỏi té ngã. Và đây rồi, nấm mộ đơn sơ của thầy nằm trong
khu lăng mộ họ Phan. Chị Lan nói trong nghẹn ngào: Mộ thầy đơn sơ quá! Chúng
tôi lặng lẽ đốt nhang, cắm lên mộ thầy và những ngôi mộ chung quanh rồi ngồi
bên nhau, nhẹ áp đôi tay vào nấm mồ xi măng lạnh lẽo có ghi dòng chữ: Đời 13 -
Phan Ngọc Thạch (tên trong gia phả cùa thầy) mà không nói nên lời. Gió chiều
xao xác, không biết có phải vì gió thổi khói nhang vào mắt hay không mà mắt của
mấy chị em tôi đều ngân ngấn nước.
Để nước mắt đừng rơi xuống, tôi ngước lên. Bầu trời tháng hạ về chiều
xanh bao la, những tia nắng cuối ngày chiếu vào những vệt mây trắng ánh lên màu
cam rực rỡ. Khu nghĩa trang nằm lặng lẽ giữa cánh đồng xanh và chúng tôi cùng
lặng lẽ tưởng nhớ người thầy tài hoa bạc mệnh. Tôi nghĩ nếu linh hiển, hẳn vong
linh thầy cũng bớt phần nào lạnh lẽo khi thấy những đứa học trò nhỏ dại của
thầy năm xưa, dù xa xôi ngàn dặm vẫn trở về tìm thăm thầy và nhỏ những giọt lệ
tiếc thương không khác gì giọt lệ tiễn thầy 42 năm trước.
Trở về Thành Cổ thì trời đã tối, sau một ngày dong
ruổi chúng tôi cần nghỉ ngơi để hôm sau còn đi dự họp trường nên không ai có ý
định đến Tích Tường tham gia đêm tiền hội ngộ.
Tôi có hai ông bạn học đã hẹn cùng nhau về hội trường
lần này nhưng cuối cùng chẳng có ai nào về được vì lo nuôi vợ bệnh. Thật là tội
nghiệp! Hai bạn ấy gọi điện cho tôi nhiều lần. Khắc Hồng dặn dò, nhắc nhở đủ
điều làm tôi vừa cảm động vừa mắc cười. Nhớ cái lần họp mặt Nguyễn Hoàng tại
Quảng Trị lần thứ III năm 2012, hắn đã về trước đón tôi và đưa tôi đi thăm khắp
các làng quê nội ngoại – đó là lần chúng tôi gặp lại nhau sau 40 năm chia tay
thời Nguyễn Hoàng - Non Nước. Còn Phan Thạch Nhân thì cứ tiếc mãi vì bà xã bệnh
bất ngờ phải vào bệnh viện trước ngày hắn chuẩn bị lên đường. Tôi an ủi: Thôi
các ông ở nhà lo cho vợ để trọn đạo nghĩa phu thê đi, hội trường còn nhiều lần
chứ có phải chỉ lần này thôi đâu. Nhân cứ nhắc lui nhắc tới là LH về Quảng Trị
phải dành thời gian thả bộ trên con đường Gia Long cũ vào một đêm trăng nào đó
nhé! Thế nên buổi tối hôm đó, dù chưa phải vào mùa trăng tôi vẫn cứ thả bộ ven
bờ sông để tròn lời hứa với ông bạn thân, vì sau buổi hội trường ngày mai tôi
sẽ rời nơi đây, đâu còn thời gian chờ đường trăng mà nhớ về ngày tháng cũ.
Đêm. Mảnh trăng lưỡi liềm nép mình trên bầu trời cao,
đâu đó những ánh sao lấp lánh. Trăng non không đủ sáng tỏa dòng sông nên chẳng
thấy đâu là bến, đâu là bờ. Ánh đèn điện hắt từng vùng ánh sáng nhờ nhờ lên con
đường vắng vẻ. Hàng cây im gió lặng lẽ rủ bóng sầu tư. Tôi bước đi mà nghe hồn trùng
trùng diệu vợi, mà mơ tưởng đến ánh trăng huyền diệu của con đường thơ mộng
thuở nào. Và thế đó bạn ạ!
Bến sông không còn như xưa
Đường trăng hết rồi ngày cũ
Cây đổ dài bóng rủ
Mờ sương
Người về viết nốt đoạn trường
Chợt nghe hai tiếng vô thường đâu đây
Rộn ràng
ngày hội Nguyễn Hoàng (20/6/2015)
Trời vừa mờ sáng đã chộn rộn, chưa ra khỏi nhà mà bạn
bè của tôi và VP ở Đông Hà đã a lô tới tấp. Sau khi điểm tâm vội vàng, mấy mệ
học trò năm nao cùng nhau về trường cũ. Trước cổng trường, vị thầy tôi gặp đầu
tiên là thầy Hồ Ngọc Thanh từ Đà Nẵng ra và thầy lúc nào cũng vui tươi, lịch
lãm. Rồi đoàn Nguyễn Hoàng - Huế với nữ đồng phục áo dài màu tím nón bài thơ
thật duyên dáng. Vẫn khung cảnh quen thuộc như mọi lần, vẫn từng đoàn người áo
quần tinh tươm bên những tràng hoa tươi thắm, vẫn thầy cô bạn bè một thuở mà lạ
chưa? Sao sau ba năm gặp lại, tôi lại thấy hình như ai cũng trẻ ra và xinh tươi
hơn.
Quầy sách Nguyễn Hoàng đặt ngay cạnh cổng trường, tôi
ghé vào mua mấy cuốn Nguyễn Hoàng số 4 do Ban liên lạc CHS/NH - Quảng Trị tại
Huế phát hành, phần cho mình, phần để dành cho người thân nhưng rồi vướng tay,
không thao tác phóng viên nghiệp dư được đành phải đem gởi Việt Hoài đang ngồi
phát hành Hương Quê Nhà.
Nhiều đám đông tụ tập trước cổng trường chụp ảnh, bọn
tôi cũng hòa vào đám người vui nhộn đó. Nhóm bạn Đông Hà vào tới, thế là chị em
tôi ai theo bạn nấy. Chúng tôi tíu tít kéo nhau đi khắp nơi để chụp ảnh lưu
niệm, trong thoáng chốc bỗng trở lại tuổi mười lăm; trong thoáng chốc bỗng quên
bẵng mình đã là những bà nội, bà ngoại với những cơn đau chắc lắc xương và đa
đoan cuộc đời. Cả sân trường râm ran tiếng nói cười, ai cũng tươi roi rói, đúng
là ngày hội. Khối lớp 8 (NK 69-75) của tôi lần này về dự họp mặt khá đông, dễ
chừng gần 60 đứa. Có đứa nay mới về lần đầu, gặp nhau phải khai tên mới nhớ ra.
Chúng tôi ngồi túm vào nhau trò chuyện. Đặc biệt giữa đám con gái áo dài, áo
đầm se sua vui mắt bỗng nỗi bật lên cái đầu trọc và tà áo nâu của thầy Thích
Nhuận Thiền (CHS/NH Trần Nông). Có người thấy vậy vội chụp ngay một pô ảnh cùng
câu nói “Đường Tăng lạc vào vương quốc Nữ giới”, khiến ai nấy bật cười vui vẻ.
Những
người quen gặp tôi ai cũng hỏi cô Giáng Hương và anh Phan Thạch Giang đâu, sao
không về? Anh Giang bận chuyện gia đình,
anh đã báo không về được từ trước, còn cô Giáng Hương thì thật là… Để chuẩn bị
cho chuyến hội trường lần này cô đã mua sẵn vé máy bay, cô bảo cô phải về vì
lần họp mặt năm 2012 cô bệnh nặng, không về được, buồn lắm. Cô hẹn khi ra Quảng
Trị sẽ gọi cho tôi và cô trò mình sẽ ở cùng một nơi. Thế nhưng trước ngày đi cô
lại nằm liệt vì cái chứng rối loạn tiền đình đến không đúng lúc, cô gọi cho
tôi, nói cô phải trả vé rồi mà giọng buồn rười rượi, thương quá là thương! Lần
về này của tôi cũng không có Lan và Nguyệt Mỹ - hai đứa bạn thân thời Thạch Hãn
đi cùng. Chúng hắn đang bận nuôi cháu nội ở Sài Gòn, đành hẹn gặp nhau trong đó
thôi. Tôi cũng rất tiếc vì sự lỡ hẹn giữa tôi và một vị CHS/NH đàn anh. Vì ở
cách nhau khá xa nên bấy lâu nay anh em tôi chỉ liên lạc với nhau qua điện
thoại. “Kiến kỳ thanh bất kiến kỳ hình” như anh thường nói. Anh hẹn sẽ gặp tôi
trong ngày hội ngộ Nguyễn Hoàng. Tôi rất vui vì mình sẽ được gặp một người mà
tôi rất nể trọng không chỉ về mặt tri thức, hiều biết mà còn luôn động viên
cùng những góp ý chân thành cho lớp đàn em như tôi. Thế nhưng anh lại bệnh bất
ngờ trước ngày họp mặt nên không về trường được, lại đành hẹn kỳ hội ngộ kế
tiếp. Ôi! Cái lứa tuổi của những CHS/NH là như thế đó. Bởi vậy tôi thường nói
với bạn bè khi nào đến dự các buổi họp trường được là đi, bởi vì tuổi đời của
chúng ta đang tỉ lệ nghịch với sức khỏe, đến một lúc nào muốn đi mà sức khỏe
không cho phép thì buồn lắm.
Buổi lễ bắt
đầu, trời hôm ấy nắng dịu, không mấy oi bức, đúng là trời thương dân Nguyễn
Hoàng. Thế nhưng mấy o vẫn ghé mua mấy chiếc quạt giấy bày bán bên góc sân
trường vừa để tạo thêm hơi gió vừa để làm dáng. Cũng như các cuộc họp mặt khác,
trên sân khấu vẫn những lời phát biểu chúc mừng, vẫn phần tặng hoa tri ân thầy
cô, tặng quà đồng môn khó khăn,… và phát học bổng cùng những màn văn nghệ xen
kẻ. Còn đám học trò già giữa sân trường thì cứ níu lấy nhau chuyện trò và chụp
ảnh.
Sau một hồi tíu tít với bạn bè, tôi gọi em gái để cùng
nhau đến chào thầy cô. Thầy Lê Hữu Thăng ngồi chung với học trò hay là học trò
vây quanh thầy? Có lẽ cả hai. Trên sân trường hôm đó, tôi gặp lại nhiều người
quen ở khắp nơi và những tấm hình kỷ niệm lại bấm vội. Những người bạn học cũ của
chị Nho hỏi sao Nho không về? Và tôi lại phải trả lời rằng thì mà là… Chị Trần
Thị Hóa đưa chị em tôi đến chào anh Trần Kim, thế là bốn anh em cùng quê Lam
Thủy thuở nào đã có chung tấm ảnh giữa sân trường - dù lời hẹn cùng nhau về
làng xưa chưa thực hiện được. Các anh Nguyễn Hoàng niên trưởng gốc làng Lam Thủy
cũng gọi chị em tôi đến thăm hỏi. Ôi! Tình đồng môn, tình quê hương sao mà ấm
áp!
Có lẽ ngày hội trường năm nay trùng với ngày Mồng 5 tháng 5 (Tết Đoan
Ngọ) nên số người về tham dự không đông, nghe đâu chỉ hơn 700 người. Tuy nhiên
khâu tổ chức khá chu đáo, có lẽ rút kinh nghiệm những lần trước. Buổi lễ kết
thúc với bữa tiệc trưa đủ chỗ ngồi, không phải chạy đôn chạy đáo như những lần
trước. Món ăn cũng vừa khẩu vị nên ai nấy cùng cụng ly vui vẻ trong tiếng hát
giúp vui của thầy trò Nguyễn Hoàng. Tiệc tàn, nhóm bạn khối lớp 8 của tôi rủ
nhau đi cà phê nhưng tôi phải trốn về, không dám chào ai vì đã nhận lời tham dự
họp mặt cùng khóa NH 65-72 do thầy Thích Lệ Nhân – tức CHS/NH Lê Nam Dương mời,
đồng thời phải chuẩn bị chút hành lý cho buổi đi biển lúc 4 giờ chiều nữa.
Đúng 2 giờ chiều, anh Hoàng Chẩm – một
CHS/NH khóa 65-72 ghé đón tôi đến Thủy Trúc Viên. Vừa đến sân tôi đã gặp thầy
Thích Lệ Nhân, thầy vui vẻ chào tôi, lấy dây đeo họp mặt khóa 65-72 cho tôi rồi
đưa vào hội trường. Mọi người đã đông đủ, hình như tôi đến muộn thì phải. Vừa
bước vào, tôi vội đến chào quý thầy cô như thầy Thăng, thầy Nghiên, thầy Nhơn,
thầy Đằng,… và gật đầu chào chung mọi người. Anh Nguyễn Văn Trị cũng là một
khách mời, anh ngoắc tôi lại ngồi gần anh. Cuộc hậu hội ngộ của nhóm NH 65-72
được tổ chức khá hoành tráng không thua gì các cuộc họp mặt khác. Ngoài các anh
chị cựu học sinh cùng khóa và khách mời là thầy cô, một số CHS các khối khác
cũng được mời tham dự. Sau phần khai mạc là phần giới thiệu và tặng hoa cho
thầy cô và khách mời. Cầm bó hoa tặng trong tay, lòng tôi bồi hồi xúc động vì
sự ưu ái mà lớp anh chị đàn anh đã dành cho tôi - một Nguyễn Hoàng đàn em chỉ
“đại diện” cho chính mình chứ không là đại diện cho nhóm hay tập thể nào cả.
Cuộc vui tiếp tục với chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn khi sôi động, lúc
sâu lắng trong không khí thân mật. Trước khi bàn tiệc được bày ra, anh Trị nói
nhỏ với tôi rằng anh phải chuồn về để kịp giờ tập trung đoàn đi Cửa Việt. Tôi
cũng thế nên hai anh em lặng lẽ rời chỗ ngồi mà chẳng dám chào ai. Không ngờ
khi lẻn ra ngoài tôi đã thấy thầy Thích Lệ Nhân ngồi đó. Thế là anh Trị và tôi
phải nói lý do để xin phép về trước. Vậy mà khi rời sân, thầy đã vội vàng chạy
theo, tặng huy hiệu của khóa 65-72 cho hai anh em, thật là cảm động.
Thời gian
còn lại: Cửa Việt, Lam Thủy và Đông Hà
Chị em tôi vội vàng tập trung ở điểm hẹn trước 4 giờ
chiều, thế mà hơn một tiếng sau xe mới đến đưa đoàn đi Cửa Việt. Nghe đâu tài
xế (chỗ đã hợp đồng) nhậu Tết Đoan Ngọ, xỉn ngoắc cần câu rồi nên ban tổ chức
phải lo chạy mướn xe khác. Hết biết!
Khi nhận phòng xong trời đã tắt nắng nhưng tôi vẫn
chạy ra biển giỡn sóng. Biển Cửa Việt thật tuyệt, bờ bãi sạch sẽ, nước trong
xanh và mát mẻ không nơi nào bằng. Trời chiều gió nhè nhẹ nên chỉ từng gợn nước
nhấp nhô rồi vỗ nhẹ vào bờ chứ không có sóng lớn. Bờ cát dài thoai thoải nên
càng lội ra xa càng thấy cạn, dòng nước trong xanh soi rõ cả cát mịn dưới nước.
Cả một ngày loay hoay giữa trời mùa hạ dù không nóng lắm nhưng cũng thấy người
bứt rứt, giờ được ngâm mình trong làn nước mát mới thú vị làm sao! Tôi chỉ muốn
tắm mãi nhưng rồi phải rời biển vì màn đêm đã buông xuống. Tôi đã từng đến bãi
biển Phú Quốc – nơi được mệnh danh là đảo Ngọc và bãi biển Côn Đảo. Những nơi
ấy cũng sạch sẽ, nước trong xanh nhưng sao tôi vẫn thấy không bằng ở đây. Phải
chăng vì Cửa Việt là quê hương mình nên tôi thiên vị?
Buổi tối chưa kịp tập trung về nơi đốt lửa trại như
chương trình của đoàn thì vợ chồng Định – Hương và nhóm bạn đã từ Đông Hà lái
xe đến trước sân khách sạn gọi tôi. Thế là cả nhóm 10 người kéo nhau đi thưởng
thức hải sản. Lại một lần tôi thiên vị - Mà không phải, sự thật là thế! Sự thật
là hải sản ở Cửa Việt ngon hơn ở bất cứ đâu nhất là món mực ống luộc. Từng lát
mực cơm dày cui, luộc chín rồi mà làn da màu hồng tím vẫn tươi như còn sống.
Gắp một lát chắm nước mắm gừng đưa vào miệng nhai nghe rôm rốp, dòn tan lẫn
trong vị thơm, vị ngọt. Tuyệt cú mèo!
Khi những cái bao tử không còn chỗ chứa thêm được món
gì nữa, nhóm trở về điểm đốt lửa trại trên bãi biển nhưng lửa đâu chẳng thấy,
hỏi chị Quang Tuyết mới biết người ta không cho đốt. Thấy số người tham dự
không nhiều nên tôi kêu nhóm bạn khoan về Đông Hà, hãy ở lại hưởng ứng cuộc
chơi một lát. Tuy số người còn ít nhưng cuộc vui vẫn tiếp diễn. Tiếng đàn, lời
ca lẫn tiếng cười hòa trong tiếng sóng biển. Dù chăm chú hết sức nhưng trong
trò chơi chim bay cò bay tôi cũng bị nhầm động tác mấy lần, nhờ “ăn gian” nên
những lần trước thoát nhưng đến lần cuối thì chị Mỹ Liên đã nhanh mắt túm được
tôi. Thế là tôi đành phải nối đuôi vào hàng người bị phạt ra sân làm vịt con
đập cánh, xoãi cẳng, lắc mông,…vừa hát vừa bước đi quanh sân theo các động tác
của vịt mẹ Mỹ Liên, trò này đã gây nên những tràng cười sảng khoái. Lâu lắm rồi
tôi mới trở lại trò chơi nầy, cảm giác như trở lại thời đi học vậy. Vui thiệt
là vui!
Khuya. Bài hát chia tay một thuở được vang lên trong
những cánh tay đan nhau rồi mọi người giải tán. Nhóm bạn của tôi tạm biệt về
lại Đông Hà sau lời hẹn ngày họp bạn hậu hội ngộ. Trên đường thả bộ về khách
sạn, anh lại gọi cho tôi. Bình thường anh chưa bao giờ gọi về giờ này vì anh sợ
làm tôi mất giấc ngủ nhưng hôm nay anh gọi, vì anh biết đêm nay tôi dự buổi lửa
trại Cửa Việt. Anh hỏi đủ thứ làm tôi trả lời không kịp, nào chuyện họp trường,
chuyện tôi gặp bạn bè, vui buồn ra sao? Chừng nào tôi về làng? … Và nhất là sức
khỏe của tôi. Khi nghe tôi ríu rít kể lại mọi chuyện anh rất vui – càng vui hơn
khi nghe thời tiết quê nhà thuận lợi cho những người xa về dự hội. Trước khi
chúc tôi ngủ ngon, anh nói “Anh luôn theo em trên mọi bước đường” làm tôi thấy
mình thật hạnh phúc. Vâng! Hạnh phúc đơn giản thế đó! Chỉ cần một câu nói ngắn
của anh cũng đủ làm tôi quên đi bao đa đoan trước đó và đem đến cho tôi giấc
ngủ ngon không mộng mị trong đêm dài Cửa Việt.
Buổi sáng, mở mắt ra thì trời đã sáng tỏ tự bao giờ,
khi chị em tôi kéo nhau ra biển thì đã đông người tắm. Hôm nay có gió nên sóng
lớn hơn, ai biết bơi thì bơi còn số không biết bơi thì túm vào nhau nhảy sóng.
Vừa tắm vừa giỡn, tiếng la hét, nói cười khuấy động cả một vùng biển vắng. Tắm
đã đời lại kéo nhau nằm ngồi sóng soãi gần bờ để chụp ảnh. Các chị lớn tuổi coi
vậy mà còn nghịch hơn cả tụi tôi. Các chị bắt từng cặp một ra tạo dáng để thi
ảnh. Ối trời ơi! Những tấm ảnh đó mà tung lên mạng chắc thiên hạ cười bò luôn
vì mệ mô mệ nấy tóc tai nước ướt nhẹp, cười nhăn răng, còn đứng, ngồi huơ tay
múa chân, có mệ còn chỏng vó lên trời nữa.
Khi xe trả chị em tôi về Thành Cổ thì đã 10 giờ trưa.
Ba chị em lo soạn hành lý để về làng. Tội nghiệp Hạnh đã chuẩn bị thức ăn nhưng
chị em tôi không còn tâm trí để ăn, lòng cứ những muốn về nội, ngoại. Hạnh nói
mãi cuối cùng đành ngồi lại ăn mấy cuốn bánh ướt, Hạnh than còn thức ăn mua sẵn
để làm món này món nọ đây ai ăn cho hết? Khi chia tay, thấy Hạnh khóc chị em
tôi cũng xúc động. Hạnh nói: Hai chị và VP đi rồi, Hạnh buồn lắm. Tôi nghĩ cả
Thành Cổ này cũng buồn nữa. Mấy ngày người Nguyễn Hoàng về trường xưa nên phố
xá rộn ràng, người đi lại trên đường phố tấp nập, tiếng nói cười râm ran, các
quán nước, nhà hàng đầy khách. Bây giờ người rút đi, thị xã trở lại nhịp đời
cũ. Lặng lẽ. Người ở lại buồn còn người đi thì thương, thương lắm phố xưa ơi!
Chúng tôi đến Quy Thiện trong cơn mưa buổi trưa ngày
hạ. Gió rít mạnh làm ngả nghiêng cây cối trong vườn nhà ngoại. Cậu nói: Nghe
họp Nguyễn Hoàng, cậu đoán các cháu sẽ về. Chúng tôi thắp hương lên bàn thờ
ngoại rồi hàn huyên cùng cậu mợ. Mưa vẫn tiếp tục rơi, nghe đâu có bão xa. Chờ
mãi không ngớt mưa, ba chị em đành đội mưa lội bộ ra xóm ngoài đốt nhang bàn
thờ cho ông cậu út vừa qua đời hai tháng trước. Con đường đất trơn trợt quanh
co ven bờ ruộng khiến tôi trợt chân té ngã, may mà có chiếc áo mưa che bên
ngoài.
Chiếc taxi lại tiếp tục lăn bánh đưa chị em tôi về
làng nội. Quê ngoại khuất dần sau làn mưa, những làng quê Trâm Lý, Văn Vận, Phú
Xuân, Trà Trì, Trà Lộc cũng lướt qua bên dòng sông Vĩnh Định. Và đây rồi, bến
nước đầu làng Lam Thủy hiện ra với bao nỗi bồi hồi bên con đường dẫn vào xóm
nhà tôi một thuở. Vợ chồng anh Ngọc Thể đón chị em tôi trong niềm vui sum họp.
Sau ly nước hội ngộ thăm hỏi nhau, trời tạnh mưa, mát
mẻ, tôi bước ra sân. Vườn nhà tôi đối diện phía bên kia nhưng chẳng còn lưu lại
một vết tích nào ngày cũ, tất cả đã thay đổi. Khung cảnh nhà anh Thể đẹp hơn
mấy năm trước, giàn hoa giấy trước cổng bao phủ một màu tím hồng tuyệt vời.
Những cành bưởi thấp lè tè trĩu quả tròn mọng thật ngon mắt bên những chậu hoa
khoe sắc. Tôi mân mê đóa mẫu đơn – một loài hoa trước đây ở quê ba tôi trồng
rất nhiều nhưng lâu rồi tôi ít khi được gặp lại. Trên những đóa hoa lớn này
thuở ấy tôi thường thấy những sinh vật mềm mại, mình nhỏ như cọng bún, dài chưa
tới lóng tay có tên là mủ mủ. Toàn thân chúng là một màu hồng cánh sen điểm
xuyết vài điểm trắng phía bụng rất đẹp mắt. Thích nhất là lúc chúng vỗ đôi cánh
mỏng, nhỏ xíu chấp chới di chuyển từ đóa hoa này sang đóa hoa khác. Mủ mủ thường
nép mình trong những chiếc lá non vùa hé mắt và hút nhựa ngọt của hoa mẫu đơn
để sống. Tôi thường bắt mủ mủ bỏ vào lòng bàn tay ngắm nghía, thích thú với
hình dáng đẹp mắt ấy rồi thả vào những đóa hoa cho chúng hút mật tiếp. Cũng từ
độ xa quê, 50 năm rồi tôi chưa hề một lần thấy lại loài côn trùng dễ thương
này, hỏi ai, ai cũng không biết, chắc chúng tuyệt chủng rồi. Ký ức sống lại
khiến lòng tôi bồi hồi nhớ ba, thương mạ và cảnh cũ một thời thơ ấu như vẫn còn
hiển hiện trước mắt.
Trước khi viếng họ hàng và đi thăm bà con lối xóm, anh
Thể mở cửa từ đường nhánh Nguyễn Ngọc để chị em tôi vào thắp hương tổ tiên. Cầm
nén hương trong tay, tự dưng không ai bảo ai mà mắt cả ba chị em đều ứa lệ. Thế
mới biết cái gốc gác cội nguồn trong mỗi con người luôn hiện hữu. Cuộc sống đa
đoan, mưu sinh nơi đất khách có thể làm lắng xuống nhưng trong một góc khuất
nào đó giòng máu họ tộc vẫn âm ỉ chảy. Và khi được trở về, bao nỗi buồn vui,
tủi phận tha phương chợt vỡ òa, trào ra không ngăn được.
Buổi tối ở quê nhà. Dễ chừng 35 năm nay tôi mới có một
đêm ở lại quê nhà Lam Thủy, những lần trước tôi chỉ sáng về thăm, chiều tạm
biệt chứ không ở lại. Cơm nước vừa xong thì có vài người bà con ở gần đến thăm,
lại cùng nhau nhắc chuyện cũ. Anh Thể cũng thông báo những dự tính xây dựng có
tính cách tâm linh về họ tộc cho chị em tôi biết và câu “ly hương bất ly tổ”
luôn ở trong tim mỗi người. Anh nay không chỉ là người chuyên lo việc họ tộc mà
còn là chủ làng, bởi thế dù về hưu đã lâu nhưng anh luôn bận rộn. Rất may là với số tuổi ngoại bát
tuần mà anh vẫn còn đủ sức khỏe để cáng đáng mọi việc.
Trời về khuya, người trong nhà đã ngủ say, không gian
miền quê thật im ắng. Không khí trong lành, dịu mát, những cơn gió ảnh hưởng
bão xa lướt qua cành lá sau vườn xào xạc. Dù qua một ngày đi nhiều nhưng tôi
vẫn khó ngủ, cứ trằn trọc với bao chuyện vui – buồn; xưa – nay đan xen trong
trí óc. Ánh trăng thượng tuần còn sót lại len qua khe cửa càng làm nỗi nhớ
trong tôi thêm da diết. Tôi nhớ, nhớ lắm. Tôi nhớ người, nhớ cảnh, nhớ ba mạ,
nhớ chị em, nhớ tuổi thơ của mình, nhớ tất cả. Ở Lam Thủy mà lòng cứ ngút ngàn
nhớ Lam Thủy. Quê hương ơi!
Trời chưa sáng hẳn chiếc xe 5 chỗ ngồi đã đến chờ
trước ngõ. Cậu lái xe là một học trò cũ của anh Thể, cậu vào nhà chào chúng tôi
rồi cùng ngồi thưởng thức ly cà phê đặc biệt do chủ nhà tự tay pha chế với mọi
người. Tôi không phải là tay nghiện cà phê nhưng cũng thuộc típ người “biết
uống”. Công nhận ly cà phê nhỏ đậm đặc do anh pha chế từ nhiều loại trộn lẫn
vào nhau thật đặc biệt. Tôi không nhấp từng ngụm nhỏ như mọi khi mà chỉ hớp
từng chút rồi ngậm trong miệng, nhẩn nha thưởng thức cho đến khi cái hương vị
thơm tho, thanh khiết ấy tan ra, ngấm dần vào cổ họng. Tiếc là mọi người lo
chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng sáng nay nên tôi chưa có thì giờ học công
thức pha chế cà phê của anh. Xong chầu cà phê, vợ chồng anh Thể cùng chị em tôi
lên xe.
Tôi yêu cầu tài xế cho ghé qua chợ Phương Lang, vừa
tìm chỗ ăn sáng vừa thăm lại quán chợ ngày xưa. Phương Lang là địa danh sản
xuất bánh ướt nổi tiếng nên đã về Quảng Trị thì không ai bỏ qua món ăn đơn giản
này. Khi đi qua mấy mẹt bán dưa gang, chị An Lành đòi mua về chắm ruốc ăn với cơm.
Nghe thế tôi bật cười, nói: Mình ra Đông Hà ở khách sạn, ăn cơm nhà hàng, mua
dưa gang làm gì. Chị cũng bật cười nói: Thấy dưa gang chị thèm quá, ở trong kia
chỉ có dưa leo chứ đâu có loại dưa gang ăn sống mát miệng như thế này. Tôi bảo:
Ra Đông Hà em bảo Loan mua cho ăn, ở đó chắc cũng không thiếu đâu. Anh Thể đưa
chúng tôi vào thăm sạp hàng của Trâm Anh, con gái đầu của anh. Gặp tôi, Trâm
Anh mừng cười toe toét mà mắt lại rưng rưng. Ngày trước, khi còn ở quê dù phân
vai là o cháu nhưng tôi và nó khá thân nhau. Trâm Anh nói cháu ước mơ sống bằng
cây bút như mấy o chứ không ngờ lại rơi vào cảnh chợ đò như thế này. Tôi thương
cháu, an ủi: Không sao cháu ạ! Mỗi người một nghiệp dĩ kiếm sống đó thôi. Mà
nghe đâu các con cháu đều là bác sĩ, kỹ sư… Thế thì còn gì bằng. Lời nói thật
lòng của tôi khiến mặt Trâm Anh tươi lên.
Xe trở lại Lam Thủy, con đường làng thẳng tắp, rộng rãi. Ngang lăng mộ
Ngài khai khẩn, tài xế cho xe dừng lại để anh em tôi vào viếng mộ. Lăng xây
theo hình bát giác, 8 cổng giống nhau tượng trưng cho 8 họ tộc của làng Lam
Thủy. Giữa cảnh đồng lúa xanh bát ngát đang thì con gái, bên kia đường là những
ao sen hồng đang độ khoe sắc đưa hương thoang thoảng trong làn gió sớm vi vu,
cảnh đồng quê thật nên thơ. Chị An Lành của tôi say sưa chiêm ngắm và hít thở
không khí trong lành của quê nhà..
Xe lại tiếp tục lăn bánh, xóm Sông với trường học cũ
bên dòng sông Vĩnh Định, kỷ niệm một thời tuổi nhỏ. Nơi ấy mấy chị em nhà tôi
đều đã học chữ với thầy Thể – tức là ông anh đang đi cùng chúng tôi hôm nay.
Nhắc chuyện xưa, lòng mỗi người lại chùng về kỷ niệm. Dừng chân giây lát trên
chiếc cầu bắc qua sông để thăm lại bến nước ngày xưa, để ngắm dòng chảy cuộc
đời mà nhớ về con đò ngang ngày ấy rồi tiếp tục lên xe để về rú Lam Thủy.
Anh em tôi sợ trưa nắng lên không đủ sức lội cát nên
bàn nhau đi thăm mộ ông bà nội của tôi trước, vì đó là những ngôi mộ được an
táng cách đây đã sáu, bảy chục năm nên nằm yên vị trong rú sâu, chỉ có những mộ
sau này mới nằm ở bìa rú, sát đường xe chạy.
Anh em tôi xuống xe ở đầu rú, đi bộ chừng hơn cây số
mới đến mộ ông bà nội tôi. Cũng may ngày qua có trận mưa nên cát không bị lún,
dễ đi. Anh Thể vừa đi vừa nói ông bà phò hộ anh em mình. Phần mộ ông bà tôi
không có gì thay đổi, vẫn những cây tràm, cây chổi và cây cam rượu lúp xúp vây
quanh chân lăng mộ. Năm nay hạn, ít mưa nên những chùm cam rượu trĩu quả bên
cạnh mộ bà nội tôi trái nhỏ xíu, không căng mộng sởn sơ như những mùa hè trước.
sau khi đốt nhang khấn vái, chị em tôi hái cam rượu ăn rồi nhắc chuyện xưa,
chuyện thuở chúng tôi còn bé tí và ba tôi còn trai tráng.
Cúi đầu vái lạy từ biệt mộ phần ông bà nội, chúng tôi
trở lại con đường cũ và lên xe vòng qua con đường lớn để đến khuôn viên lăng mộ
dòng Nguyễn Ngọc. Và đây rồi, lăng mộ của ba tôi vẫn như năm nào. Không ai nhìn
ai mà chị em tôi đều òa ra khóc, nước mắt nước mũi tèm lem. Chúng tôi bày bánh
trái dưới chân bia rồi cùng nhau đốt nhang khấn vái. Gió sớm thổi vi vút đưa
làn khói nhang chập chờn, lung linh trong màu nắng của một buổi sáng yên bình,
đâu đó hoa mua tím bạt ngàn một màu nhung nhớ.
Ngồi lại bên nấm mồ của ba trong chốc lát, chị em tôi đứng lên tiếp tục
thắp nhang viếng lăng mộ bà con chú bác chung quanh. Vừa thắp nhang vừa thì
thầm khấn vái như chuyện trò với người đã khuất. Nầy là mộ bác, mộ o; kia là mộ
chị, mộ cháu… Trong phút chốc những khuôn mặt bà con thân quen thuở nào như trở
về hiển hiện trước mắt chị em chúng tôi với bao nỗi nhớ thương quay quắt.
Trời sáng nay mát dịu, ánh nắng nhạt nhẹ nhàng phất phơ
qua ngàn cây nội cỏ khi xe rời rú Lam Thủy.
Ghé trằm Trà Lộc, anh em chúng tôi chọn một chòi lá để
nghỉ trưa và để có thì giờ ngồi bên nhau, trời chợt đổ mưa. Ai cũng bảo may
quá! May mình vừa đi viếng mộ xong và chắc hương đã cháy hết, chứ viếng mộ trong
mưa, đốt hương không cháy thì đau lòng lắm lắm. Tội nghiệp! Trời mưa thế mà
Trâm Anh ở Ngô Xá Đông cùng chồng đội mưa chở nhau đến hàn huyên. Thôi thì đủ
chuyện vui buồn tuôn ra. Hết khóc lại cười; hết nhắc chuyện cũ lại hỏi chuyện
mới. Hết chọc ghẹo nhau lại xúm vào ghi hình kỷ niệm mặc bên ngoài mưa trưa
vướng vít lá hoa cây cỏ.
Chiều. Trời vẫn mưa rả rích. Trâm Anh lại cùng chồng
đội mưa tạm biệt chị em tôi trong nụ cười vương khói. Chúng tôi quay xe trở về.
Việt Hương, Loan ở Đông Hà gọi điện thoại thúc giục. Chất hành lý lên xe, chị
em tôi chào tạm biệt anh chị Ngọc Thể, tạm biệt giàn hoa giấy trước cổng nhà;
tạm biệt xóm nhỏ; tạm biệt con đường xưa; tạm biệt dòng sông đầy lục bình ngày
hạ để trực chỉ Đông Hà.
Trên đường đi, điện thoại của tôi và Vĩnh Phước cứ
chốc chốc lại réo. Bạn bè ở Đông Hà đang đợi chờ, nóng ruột. Duy chỉ có chị An
Lành là ngồi lặng lẽ. Tôi biết chị đang nghĩ gì. Đã nhiều lần cùng chồng con về
Quảng Trị nhưng chị chỉ ghé tạt qua làng thăm người thân chốc lát rồi vội vàng
từ giã chứ chưa bao giờ có khoảng thời gian ở lại như lần này. Chị thường tâm
sự với tôi là chị muốn cùng em gái về quê một lần. Chị muốn về thăm lại Thạch
Hãn xưa, muốn gõ bước trên con đường ra chợ tỉnh, muốn dừng chân ngắm dòng sông
Thạch Hãn lúc chiều buông. Và nhất là có một buổi tối ở quê nhà Lam Thủy để sáng
hôm sau ra đồng thăm lúa, nhìn những mương nước ngày nào dẫn thủy nhập điền bên
những phần đất màu mỡ trồng hoa màu xanh tốt; để đi lại con đường xưa, chao
chân ở bến nước cũ, v.v… và bây giờ chị đã toại nguyện.
Khi xe dừng trước khách sạn Hoa Hồng thì đường phố đã lên đèn. Loan gọi
điện hỏi địa chỉ để đến nhưng tôi khất sáng mai vì đã muộn. Hơn nữa tối nay tôi
có đặt những món ăn dân dã Quảng Trị tại nhà hàng Hiệp Lợi của Việt Hương để
chia tay với nhóm bạn chị Lê Lan, vì
ngày mai chị sẽ rời Quảng Trị. Khi cơm nước xong, trở về khách sạn thì Lê Nga –
bạn học thuở lớp 6 của VP đã lái xe đến chờ trước cửa và thế là em đành xin
phép hai chị, xách vali về nhà bạn.
Buổi sáng thức dậy muộn, chưa kịp ăn sáng thì Loan đã
gọi rồi mang thức ăn đến vì trời mưa nhỏ, chao ơi đủ thứ, nào quà bánh, nào
trái cây, nước giải khát… Ăn không hết phải mang về nhà để trưa ăn tiếp. Mùa
hội trường năm nay Loan không về họp mặt, các bạn bảo vì LH không ra Đông Hà
kéo Loan nên hắn không đi. Điều đó có lẽ cũng đúng nhưng Loan nói với tôi là
không thể đi vì mạ Loan đang nằm điều trị ở bệnh viện, Loan phải trực mạ để chị
em về dự hội trường. Điều này cũng không sai vì nhà Loan cả mấy chị em cũng đều
là CHS/NH. Loan hỏi địa chỉ tôi ở Quảng Trị để chiều vào thăm nhưng tôi bảo
trước sau tôi cũng ra Đông Hà, đừng vội. Và bây giờ chúng tôi đã ngồi bên nhau,
tay trong tay, miệng cười mà nước mắt ngân ngấn. Loan và tôi là đôi bạn học
thân thiết của một thời mới lớn, tuy ít có điểm chung nhưng không hiểu sao lại
thân nhau lạ lùng. Không chỉ hai đứa thân nhau mà thân luôn cả mấy chị em trong
nhà. Từ ngày tôi xa Quảng Trị, gần 40 năm qua tuy những lần gặp nhau rất hiếm
hoi nhưng không vì thế mà tình bạn giữa chúng tôi phai nhạt. Mỗi lần gặp nhau
là một lần nụ cười hòa trong nước mắt, mừng mừng, tủi tủi. Chúng tôi tin tưởng
nhau tuyệt đối nên sẵn sàng chia sẻ chuyện riêng tư, không dấu nhau điều gì,
bạn cười khi tôi vui, bạn khóc khi tôi buồn. Và hôm nay tôi đã thổ lộ với Loan
điều thầm kín chưa một ai hay biết, Loan bóp chặt tay tôi, nhìn vào mắt tôi và
nói: Mình tin tưởng ở LH, luôn tin tưởng LH đúng. Được sự đồng tình của bạn,
lòng tôi nhẹ đi rất nhiều. Loan ơi! Ông trời đã dun rủi cho mình được kết thân
với bạn, một người bạn thủy chung như nhất, phải chăng đó là ân điển cuộc đời,
Loan nhỉ!
Trời vẫn mưa lất phất, tôi và chị An Lành theo Loan vào bệnh viện thăm
mẹ Loan. Gặp tôi, bác nhận ra ngay và khi nhắc lại bác cũng nhận ra được chị An
Lành dù đã hơn 35 năm không còn ở chung khu phố. Mẹ Loan năm nay đã 90 tuổi
nhưng thần sắc còn rất tốt, tuy nhiên người già là thế, vào ra bệnh viện như
cơm bữa. Bác la chị em tôi sao không về nhà ở cho vui, nhà cửa rộng rãi cũng
chả thiếu tiện nghị, ở khách sạn chi cho tốn tiền. Loan bảo lỡ lần ni thôi chứ
lần sau về đây mà ở khách sạn là tau từ đó. Tôi cười hứa lần sau dù mang theo
cả nhà đi nữa vẫn đến ở nhà Loan khiến hắn cười tươi: Rứa mới phải chơ!
Loan gọi cô cháu gái đến trực bà ngoại rồi đưa chị em
tôi về nhà. Loan bảo đi ăn gà chỉ nhưng tôi thú thật mấy ngày nay “quá tải” nên
rất sợ thịt cá, giờ chỉ thèm rau cải thôi. Chị An Lành đòi thêm món dưa gang và
cà trắng kẹp rau thơm chắm ruốc bột Hà Tây, thế là có ngay. Nhưng khi tôi xuống
bếp lại thấy bạn lúi húi nhổ lông gà. Tôi giận, bảo: Mi nấu thì mi ăn chứ tau
không nhúng đũa mô. Nói là nói thế thôi chứ làm sao từ chối khi bạn gắp miếng
đùi gà bóp rau răm thơm lừng bỏ vào chén? Hi hi…
Bữa trưa hôm đó là bữa ăn ngon nhất của chị em tôi từ
khi về Quảng Trị. Những đọt rau muống luộc xanh mướt; những miếng cà, miếng dưa
tươi rói chắm ruốc cắn nghe rôm rốp. Ăn xong húp chén nước rau vắt chanh mằn
mặn, chao ơi là ngon!
Buổi chiều chúng tôi họp bạn ở nhà hàng Bích La Thôn
II, nhưng trời mưa lớn nên nhiều bạn không đến – nhất là những bạn ở thị xã
Quảng Trị và phía Hải Lăng. Lại những màn quậy phá, chụp ảnh và trao số điện
thoại cho nhau. Có mấy đứa nghịch tặc cứ tuôn ra từng tràng tiếng địa phương cổ
xưa khiến tôi nghe mà ngớ người ra, phải nhập vào bộ nhớ 40 năm trước, tra cứu
chốc lát mới hiểu được bạn nói gì, cười đến đau ruột. Mắc cười nhất là khi tôi
nghe hai tiếng “ủ loạn” – Hình như đó là một lời chê trách. Trời ơi! Ủ loạn?
Tôi đau đầu với từ này mất. Đúng là Quảng Trị mình có những tiếng địa phương
không tra từ điển được. Dân xứ khác đến đây nghe là từ bị thương đến chết thôi. Lại nhớ hồi sáng vào
thăm mẹ Loan trong bệnh viện gặp lúc bác sĩ đang khám bệnh. Bác sĩ hỏi bệnh
nhân trong phòng: Mệ đau răng? O đau răng? Và bệnh nhân khai: Tui đau chỗ ni,
tui đau chỗ tê, tui đau trôốc, lạt mẹng, trốốc cúi tui dức lắm, v.v… Tôi ngồi
nghe mà nín cười gần chết.
Đến 7 giờ tối, cơn mưa vẫn rả rích. Bạn ở Quảng Trị từ
giã ra về vì trời tối đường xa, còn lại nhóm Đông Hà kéo nhau đi cà phê Nét Xưa
đến hơn 10 giờ đêm mới chia tay.
Sáng Đông Hà trời vẫn mưa lất phất. Buổi sáng Loan đưa
chị em tôi đi ngắm chợ Đông Hà để ăn hàng đồng thời mua sắm chút quà cho người
thân và bạn bè ở phương Nam. Ồ! Ở đây cái gì cũng rẻ, cũng đẹp. Thế là ba chị
em tha hồ lựa chọn, mua rồi về khách sạn còn kêu xe chạy ra mua nữa. Vợ chồng
Việt Hương mời cơm trưa, có cả chị Quang Tuyết. Xong còn kéo nhau đến quán Trà
Sen uống cà phê. Khung cảnh nơi đây thật thơ mộng. Ngoài những gian nhà gỗ
thoáng mát và hoa lá tạo cảnh, hàng cọ dừa chạy dọc theo lối đi quanh co bên
những hình ảnh trang trí hài hòa, đẹp mắt. Xa xa là rừng cây cọ dừa bên hồ nước
còn mang vẻ nguyên sơ khiến mấy chị em mê mãi ghi hình quên cả bóng chiều rơi.
Chiều tối ngày cuối ở Đông Hà bận thu xếp hành lý nên
tôi đành từ chối những lời mời của bạn bè, xin hẹn lần sau vậy. Thế mà buổi tối
Việt Hương cũng qua chào từ giã rồi đến khuya Loan đội mưa tìm đến, mang theo
đủ thứ nào chè, nào hột vịt lộn, nào bánh trái để chị em tôi ăn khuya và mang
đi đường sáng mai. Tôi không chịu ăn, phần giận bạn không nghe lời (tôi đã bảo trời
mưa, đừng đến nữa), phần ăn tối xong còn no nhưng cuối cùng nhìn vào mắt bạn
tôi phải ráng ăn thêm. Bạn tôi như thế đó, giận thì giận mà thương vẫn thương
lắm nên không nỡ làm bạn buồn lòng.
5 giờ sáng, chị em tôi trả phòng khách sạn và rời Đông
Hà sau khi gởi những tin nhắn chia tay cho bạn bè. Dọc đường trở vào đất phương
Nam những cuộc gọi của bạn bè vẫn tiếp tục. Loan, Việt Hương,… tiếc rẻ thời
gian ở Đông Hà của tôi quá ngắn nên chưa tâm sự được gì với nhau, thôi đành nói
qua điện thoại vậy. Anh lại gọi về nhưng tối đó tôi để nhỡ cuộc gọi của anh, vì
tôi bỏ điện thoại trong túi xách trong lúc đi loanh quanh, tiếng ồn đã át tiếng
chuông báo nên tôi không nghe máy khiến anh lo lắng, sáng hôm sau tôi vừa về
đến nhà anh đã vội gọi lại và an tâm khi biết tôi đã về nhà bình an.
Trở về nhà sau hơn tuần vắng mặt, chợt thấy giàn hoa
sử quân tử và hoàng anh rủ xuống, phủ kín trước cổng nhà. Những ngày tôi đi
vắng, nơi đây ngày nào cũng mưa, mưa như trút nước suốt ngày đêm nhưng giờ tôi
về thì trời tạnh ráo. Trong khi đó ở quê nhà bạn bè gọi vào than nắng nóng chịu
không thấu. Bạn bảo tôi về, mang cơn mưa và hơi mát về theo giải nhiệt ngày hạ
quê nhà được dăm bữa, nay tôi đi thì nắng hè đổ lửa và từng trận gió Nam Lào
cũng trở lại. Nghe mà thương chi lạ! Mỗi ngày tôi đều theo dõi dự báo thời tiết
khắp nơi trong nước, lòng lại chùng xuống, xót xa khi ngày nào cũng thấy nhiệt
độ ở quê mình 39 – 40 độ C.
Bạn dặn: Hè năm sau đưa con gái về thăm quê nghe. Tôi
trả lời: Nhà mình neo người, mạ lại già yếu nên không dám hứa. Đợi họp trường
mình sẽ kết hợp về luôn thể. Hẹn 3 năm sau nhé!
Bạn cười: Không đâu, ngày trả lại tên trường Nguyễn
Hoàng sẽ là ngày khai hội. Ngày ấy không đến 3 năm đâu”.
Ừ! Thì cứ mong như vậy.
Quảng Trị ơi! Về để mà thương.
Nguyễn Hoàng ơi! Đi rồi lại nhớ. Nhớ lắm quê nhà tôi
ơi!
Liên Hưng
(Biên
Hòa, 05/7/2015)
Bản văn miêu tả đầy đủ chi tiết, sống đông, thắm đượm tình bạn, tình gia tộc, quê hương làng xóm... Sức khỏe quá tốt, đi rất nhiều nơi, ghé rất nhiều chỗ, nhận xét tinh tế (Bãi tắm Cửa Việt)... Thật tuyệt vời.
Trả lờiXóa"Cám ơn đời cho ta còn cơ hội... Mãnh trời xanh cũ vẫn rong chơi..."